NHỮNG NGƯỜI MẸ
Ở LÀNG KHOA
BẢNG
XC & QS
Cụ Nguyễn Duy Tuấn là người làng
Khả Lãm, phủ Ứng Thiên; nay là thôn Cao Lãm, xã Cao Thành, huyện Ứng Hòa thành
phố Hà Nội). Năm 1670, dưới thời vua Lê Huyền Tông, Cụ thi đỗ Cống cử, được coi
là người khai khoa của làng Cao Lãm. Mẹ của Cụ là Mai Thị Biểu, người phụ nữ
đảm đang, tài trí.
Tương truyền, Cụ bà là một người phụ nữ cần kiệm, kính nhường, chăm chỉ
cấy cày, dệt vải.... Cụ thường dệt the, lụa rồi mang đi khắp nơi để bán. Trong
một lần mang lụa đi bán ở Chương Đức (Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay), Cụ tình cờ
được chứng kiến lễ “vinh quy bái Tổ” của một quan trạng. Vị quan ngồi trên kiệu
tám đòn, xung quanh kẻ vác lọng, người che tàn, trống chiêng vang rộn, kẻ đón
người đưa tấp nập. Các hương lý, hào mục khắp vùng đều sắp lễ vật đứng hai bên
đường để tung hô bái lạy. Vị quan trạng còn rất trẻ, vận mũ áo vua ban nom thật
oai vệ. Cụ nghĩ: “Gía như con trai mình được như thế!”. Điều mong ước ấy nung
nấu trong lòng người mẹ. Sáng hôm sau, Cụ sắm lễ vật đến gặp quan trạng, hỏi
làm thế nào mà ngài được như thế?
Quan trạng trả lời:
- Học là được.
Khi trở về, Cụ sắm sửa khăn gói, rồi đưa con đi mấy ngày đường, tìm đến
thầy dạy nổi tiếng nhất vùng để xin cho con học.
Những ngày đầu, cậu Tuấn còn chểnh mảng học hành, nhớ nhà, nhớ mẹ nên
thường xuyên hay bỏ học trốn về nhà. Nhiều lần khuyên nhủ con nhưng không
thành. Một hôm, Cụ gọi con đến bên khung cửi, rồi hỏi:
-
Mẹ hỏi con, những đường tơ mẹ đang mắc trên khung cứi này đã phải là tấm lụa chưa?
Cậu Tuấn khoanh tay lễ phép thưa: “Dạ thưa mẹ, chưa phải là tấm lụa ạ!”
- Đúng là chưa phải, bởi mẹ còn
phải vất vả đêm ngày để dệt từng sợi ngang dọc vào với nhau, vuốt ve, sang sửa,
chăm chút từng nhát thoi đưa mới thành tấm lụa để bán đi, nuôi con ăn học. Việc
học của con cũng giống như việc dệt lụa của mẹ đây, phải biết kiên trì học từng
chữ, từng câu, nắn nót tay bút, miệt mài đêm ngày, học thầy, học bạn thì mới
thành người tài giỏi. Còn cứ học hành phất phơ, nay học, mai bỏ, thì cũng không
khác gì mẹ cầm kéo cắt đứt từng sợi tơ trên khung cửi như thế này....
Nói đoạn, Cụ bèn cầm kéo cắt ngang tất cả những sợi tơ đang dệt dở dang
trên khung cửi. Người con trai hốt hoảng chưa kịp ngăn mẹ thì dàn sợi đã đứt
ngổn ngang. Cậu ân hận quỳ xuống bên mẹ:
- Thưa mẹ! Con đã biết lỗi của con rồi. Con hứa với
mẹ, từ nay con sẽ chăm chỉ học hành để mẹ được an lòng.
Ngày hôm sau, trước khi con trai
lên đường, bà lên chợ mua mấy chục vuông lụa đào, về khâu thành một chếc võng
rồi bảo con:
- Mẹ khâu sẵn chiếc võng này để
chờ khi nào con chí toại danh thành, vinh quy bải Tổ trở về!
Rồi bà bọc kỹ tấm võng, gác
lên mái nhà để ngày ngày nhìn thấy mà cố gắng làm lụng nuôi con ăn học. Cảm
động trước tấm lòng của mẹ, cậu con trai càng ân hận vì đã để mẹ phải buồn
phiền. Cậu ra sức dùi mài kinh sử. Khi triều đình mở khoa thi, Nguyễn Duy Tuấn
đã đỗ Trung khoa, sau đó được cử giữ chức Tri phủ Duy Tiên, đem vẻ vang về cho
gia đình và quê hương.
Con trai của Cụ Nguyễn Duy
Tuấn là Nguyễn Duy Đôn được bà nội dạy dỗ từ nhỏ. Năm 18 tuổi, cậu đỗ Cử nhân.
Đến kỳ thi Hội năm Nhâm Thìn (1712), dưới triều vua Lê Dụ Tông, Nguyễn Duy Đôn
đỗ Đình nguyên Hoàng giáp Tiến sĩ. Cụ từng giữ chức Hàn lâm viện thừa chí, làm
quan đến Tả thị lang Bộ binh, Tế tửu Quốc Tử Giám. Cụ được giao trọng trách soạn
thảo văn bia Tiến sĩ khoa Đinh Mùi dựng ở Quốc Tử Giám Hà Nội. Cuối đời, Cụ về
trí sĩ ở quê, mở trường dạy học.
Sau khi Cụ mất, triều đình
nhà Lê đã phong sắc tặng Cụ chức “Công bộ thượng thư, tước hầu”.
Cụ Nguyễn Duy Đôn thường kể
lại câu chuyện về người bà nội của mình cho các con cháu và học trò nghe để làm
gương. Cụ bà Nguyễn Thị Khiếu, chị ruột Cụ Nguyễn Duy Đôn cũng là một bà mẹ tài
trí, không thua kém gì bà nội của mình.Cụ đã giáo dục , dạy dỗ cả hai người con
trai là Mai Danh Tông và Mai Trọng Tương phấn đấu nên người. Hai Cụ Tông (1731)
và Tương đã đỗ Tiến sĩ và đều làm quan trong triều đình nhà Lê. Ba cậu cháu
Nguyễn Duy Đôn, Mai Danh Tông, Mai Trọng Tương cùng làm quan trong triều, làm
nên nên huyền thoại: “Tam Tiến sĩ đồng triều”. Nhà Lê đã sắc phong cho cha mẹ
của hai Cụ là Cống cử Mai Hữu Khánh hai bức hoành phi: “Lưỡng tử đăng khoa” và
“Nghĩa phương giáo huấn”.
Noi theo tấm gương của các
bậc tiền bối, các thế hệ người làng Cao Lãm sau này đều biết lấy câu chuyện dạy
con của những người mẹ tài trí ấy làm mẫu mực để dayh dỗ con cháu. Nhờ đó, một
làng nhỏ bé với hơn một trăm nóc nhà, dưới triều đại Lê Trung hưng, tính từ sự
khai khoa của Cụ Nguyễn Duy Tuấn trở về sau này, tổng cộng đã có 3 Tiến sĩ, 80
vị đỗ Tam trường, cử nhân, hoành từ, hiếu liêm; gần hai chục vị đỗ Tú tài, sinh
đồ, hương cống. Tên tuổi của 99 vị khoa bảng đã được người làng khắc vào bia đá
lưu giữ đến ngày nay.
Thời hiện đại ngày nay, làng
Cao Lãm cũng đã có tới 7 Tiến sĩ, gần ba chục Thạc sĩ và trên hai trăm người là
bác sĩ, kỹ sư, cử nhân, nhạc sĩ.... đang ngày đêm trên khắp mọi miền của Tổ
Quốc, đóng góp phần mình trong việc làm giàu
cho quê hương đất nước.
8 - 2006