Bài ký văn bia
CỦA TIẾN SĨ
NGUYỄN DUY ĐÔN
Tiến sĩ Nguyễn Duy Đôn sinh năm 1679 ở
thôn Khả Lãm, nay là thôn Cao Lãm, xã Cao Thành, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây. Từ
nhỏ, Cụ nổi tiếng thông minh, Năm 18 tuổi đỗ Cử nhân. Năm 34 tuổi đỗ Đình
nguyên, Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1712). Cụ từng giữ chức Hàn lâm viện thừa
chí, làm quan tới Tả Thị lang bộ binh, Tế tứu Quốc Tử Giám. Cụ có công dạy dỗ
hai cháu ruột (gọi Cụ
bằng cậu) là Mai Danh Tông và Mai Trọng Tương đều đỗ Tiến sĩ và đều cùng
cậu ruột làm quan trong triều, nên thời đó gọi là “Tam Tiến sĩ đồng triều”.
Cuối đời, Cụ về trí sĩ ở quê. Sau khi mất, Cụ được tặng chức Công bộ thượng
thư, tước hầu. Cụ từng được giao trách nhiệm soạn thảo văn bia Tiến sĩ khoa
Đinh Mùi, dựng ở Quốc Tử Giám Hà Nội.
Bài ký do Cụ soạn như sau:
BÀI KÝ GHI TÊN
TIẾN SĨ KHOA ĐINH MÙI
Niên hiệu Bảo
Thái 8 (1727)
Mở khoa thi Tiến sĩ, dựng bia ghi tên những người đỗ là một điển lễ lớn
nhằm cổ vũ nhân tài của Thánh triều ta.
Kính nghĩ:
Đức Dụ tông hoàng đế nối ngôi trong cảnh
thái bình giữ yên nền thịnh trị; thực nhờ Đức Hy tổ nhân vương dốc lòng mưu cho
bình trị, lưu ý kén chọn hiền tài. Mùa xuân, tháng 3 năm Đinh Mùi (1727) mở
khoa thi đại tỵ, thi tài cống sĩ trong cả nước, cắt cử bề tôi là Đô đốc đồng
tri, phó tưởng bảo Quận công Trịnh Khôi làm Đề điệu. Bồi tụng Lại bộ Tả thị
lang ly, Quận công Trương Công Giáo quyền tri cống cử. Bồi tụng Binh bộ Hữu thị
lang, Lại trạch hầu Lại Đình Kính và Hình bộ thị lang Tín trạch hầu Nguyễn
Trung Quán cùng làm giám thí. Ngoài ra còn các chức như Tuần xước trong khi thi
và những người có chức vụ khác trong cũng như ngoài, dựa nhau mỗi người mỗi
việc. Có 3000 ứng thí, chon người tài giỏi nhất được bọn Đặng Công Diễn gồm 10
người. Đến mùa hạ, ngày 20 tháng 5 cho vào thi diện, lấy Nguyễn Thế Lập đỗ Tiến
sĩ cập đệ tam danh. Bọn Nguyễn Đức Vỹ 9 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
Nay Đức Hoàng
thượng bệ hạ rạng rỡ chịu mệnh lớn, kính cẩn nối nghiệp xưa, thực nhờ Đại
nguyên súy, Thống Quốc chính Thượng sư Uy vương tóm thâu quyền lớn, sắp xếp mọi
ngành. Mở rộng chế độ văn minh, noi theo khuôn phép tốt đẹp. Xuống chỉ truyền
cho dựng bia đề tên, dựng ở nhà Quốc học, lại sai bọn tôi soạn văn ghi lại sự
việc.
Bọn tôi trộm nghĩ:
Thêu lên cờ quạt, chạm vào chuông đỉnh,
khắc trong khoán sách, ghi tên sử son là những việc làm mà các bậc đế vương
từng làm để đãi ngộ kẻ sĩ không phải là không chu đáo, nhưng đó chỉ là đối với
những người có công lao mà thôi. Còn như những bậc anh tài vừa cất nhắc, các
bậc nho nhã mới được thu dùng, thì việc nêu rõ họ tên, khắc vào bia đá để biểu
dương mãi mãi về sau thì chưa thấy có.
Kính nghĩ:
Quốc triều ta các Thánh nối tiếp, khuôn phép
noi theo, tôn chuộng đạo Nho, cổ lệ văn học, những người thi đỗ đều được dựng
bia đá để lưu truyền, viết văn để công bố, nêu cao tên họ, rạng rỡ mãi đến đời
sau. Về mặt vun đắp văn phong, khuyến khích hiền tuấn, có thể nói là hơn hết
các đời vương và vượt hẳn ngàn thuở trước vậy!
Kẻ sĩ sinh ra ở đời nay, dồi dào đạo
Thánh, tắm gội ơn trên, người nối gót đứng trong triều, nhìn tấm bia này ai là
chẳng tự mình phấn chấn, dùi mài tiết tháo, gắng gội công danh mong xứng đáng
với việc tốt lành trong đạo. Kẻ phủi bụi sách nơi nhà học, ngó vầng đá ấy, ai
là không một dạ tinh thành, rèn luyện học hành, ngậm hương nuốt nhị, may thỏa
mãn tấc lòng mong mỏi gần vua. Bọn tôi biết rằng việc dựng bia đề tên này là để
trau dồi đạo làm quan cho người có chức vị và cổ vũ lòng kẻ sĩ trong buổi thái
bình, việc ấy thực có quan hệ rất lớn đối với phong tục và giáo hóa, há phải
chi để phô trương trước tai mắt mọi người mà thôi đâu?
Kính thay!
Bề tôi là Trung trinh đại phu Hàn lâm viện
Thừa chí, Tri thự nội thư Tả lễ phiên Nguyễn Duy Đôn vâng sắc soạn.
Bia lập ngày 26 tháng 8 niên hiệu Long Đức
năm thứ 2 nước Việt.
St theo tài
liệu của Viện Hán nôm 2005
·
Bài đã in trên báo Hà Tây cuối tuần 20-8-2006 và trong tuyển tập “Sợi
mưa quê”
NXB hội nhà văn 2009