NGƯỜI CHA
&
con cháu Tiến sĩ
“Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dỉ ghẻ có thương con chồng”
Câu ca dao xưa sao mà ai oán, nghiệt ngã
đến vậy! Có lẽ trong hoàn cảnh cụ thể nào đó, người sáng tác ra nó đột nhiên
thốt ra cho vơi đi nỗi lòng đắng cay, chua xót của mình; và ngẫu nhiên nó lại
được đem áp vào trường hợp cá biệt khác để trở thành câu cửa miệng của người
đời, rồi trở thánh tác phẩm văn học dân gian “Tấm Cám”; Song tuyệt nhiên chuyện
dì ghẻ không thương con chồng không phải là chân lý phổ biến của loài người,
bởi “nhân chi sơ, vốn bản thiện”. Câu chuyện “Bà mẹ kế - người cha và con chảu
Tiến sĩ” dưới đây đã diễn ra từ vài ba thế kỷ trước – một câu chuyện có thật
được ghi trong tộc phả - là một minh chứng không hiếm!
Thế kỷ XIII, XIX, hai làng Bặt và Khả Lãm
thuộc huyện Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Tây ngày nay) đều là làng khoa
bảng, bởi lẽ đều có nhiều người đỗ đạt cao, giữ nhiều trọng trách do chính
quyền đương thời giao phó. Hai làng chỉ khác nhau ở chỗ: Khoa bảng của làng Khả
Lãm nở rộ ở triều đại Lê Trung hưng, còn
làng Bặt thì nở rộ ở triều nhà Nguyễn. Giở từng trang phả hệ của nhiều
dòng họ trong huyện thấy nổi lên mối quan hệ hôn nhân mà trong đó đã vận dụng
uyển chuyển câu thành ngữ: “Lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống!?”. Trong số
đó có hầu hết những người phụ nữ Khả Lãm xưa kia (Cao Lãm, Cao Thành ngày nay) lấy chồng thiên hạ đều có công gây
dựng, chăm sóc cho “Cây” nhà chồng đơm hoa kết trái. Một người phụ nữ tên là
Mai Thị Tân ở làng Khả Lãm lấy chồng họ Dương làng Vân Đình. Chồng mất sớm, Cụ
đã nuôi dạy con trai Dương Danh Ứng ăn học thi đỗ Hương cống. Cụ nuôi dạy tiếp
cháu nội Dương Khuê đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1868); cháu nội Dương Lâm đỗ Giải
nguyên, hàm Thái tử Thiếu bảo; chút nội Dương Thiệu Tường đỗ Tiến sĩ năm 1919.
Đặc biệt, chỉ riêng dòng họ Nguyễn Thượng
ở làng Bặt Chùa đã có tới bốn người đàn ông ở bốn đời đều lấy vợ là người làng
Khả Lãm. Bốn người con dâu ấy đều làm rạng danh cho gia đình nhà chồng. Mở đầu
và nổi bật nhất là “Bà mẹ kế” Nguyễn Thị Tiễu. Gương sáng của Cụ được các thế
hệ dòng họ Nguyễn Thượng và nhân dân làng Bặt Chùa ca ngợi đến tận ngày nay.
Cụ Tiễu hiệu Đoan Dục, người họ Nguyễn
làng Khả Lãm, lấy lẽ Cụ Nguyễn Khải – đời thứ 8, chi Ất, họ Nguyễn Thượng –
người làng Bặt Chùa. Khi Cụ ông đứng tuổi thì Cụ vợ cả mất. Lúc ấy con cả là Cụ
Hiệu Trai đã có vợ con ra ở riêng. Cụ Trai ham làm ăn. Cụ trồng vườn cam tốt
lắm nên chẳng thích học hành gì. Khi Cụ Kế (Cụ
Tiễu) về nhà chồng thấy thế mới khuyên Cụ ông sang nhà con trai chặt cam,
phá vườn để cho con trai của vợ cả (Cụ
Hiệu Trai) phải đi học!
Cụ Hiệu Trai chưa hiểu chuyện gì mới khóc
lóc kêu:
- Thầy nghe dì
xúi mà làm hại con!
Cụ Kế mới lên tiếng:
- Việc ấy tôi
xui thầy anh thật! Nhà ta vốn là con nhà thi thư, anh phải nên chăm lo học hành
để nối nghiệp nhà, chứ không nên lo những việc sinh nhai tầm thường ấy vội, nên
tôi xui thầy anh phá đi để anh phải đi học.
Cụ Hiệu Trai nói:
-
Tôi đi học thì ở nhà ai nuôi vợ con tôi?
Cụ Kế nói:
-
Anh cứ đi học, vợ con anh đã có tôi chăm nom.
Nói rồi, Cụ sai người nhà đem tất cả lúa
ra sân, chia làm ba đống. Cụ chỉ từng đống lúa và nói:
- Đống này để
tôi phụng dưỡng thầy. Đống này để nuôi vợ con anh. Đống kia để làm lương cho
anh đi học.
Cụ Hiệu Trai nại lại rằng:
-
Tôi lớn tuổi thế này, bây giờ còn đi học gì và biết học
ai?
Cụ Kế nói:
-
Miễn là anh có chí học, tôi sẽ có nơi, có thầy cho anh
học.
Liền đó Cụ đưa Cụ Hiệu Trai vào
quê ngoại Khả Lãm học Cụ Trấn Đông (quan
chức Triều Lê làm Tổng đốc Hải Dương) là anh trai mình đã nghỉ hưu. Cụ Hiệu
Trai thông minh lắm, ba năm sau đỗ Hương cống (năm ấy Cụ 27 tuổi). Cụ thi Hội bốn lần, đỗ Tam tràng (đỗ phó bảng bốn lần). Sau đó Cụ làm
quan tới Tri huyện huyện Thiên Bản – Nam định ngày nay.
Cụ Hiệu Trai (đời thứ 9) đỗ đạt làm quan đã nối tiếp được mạch đỗ đạt làm quan
của dòng họ Nguyễn Thượng từ đời thứ 7 (Cụ
Tiết Trai), đời thứ 8 (Cụ Thanh Hiên)
“ Cụ Kế thật là một bậc hiền đức, có tài
quyết đoán sáng suốt, nêu gương sáng cho thế gian: Mẹ ghẻ mà thương con chồng,
lo toan gây dựng như con đẻ của mình cũng là một việc hiếm có! Nhất là con
chồng đã lớn tuổi, đã có vợ con, ở riêng, nhà cửa đàng hoàng; mà Cụ dám cả
quyết phá sản nghiệp đi để bắt đi học, không sợ tai tiếng: mẹ ghẻ con chồng,
rồi lại khu xử mọi việc đâu ra đấy rất công minh đích đáng! Nếu không có Cụ Kế
thì Cụ Hiệu Trai chỉ là người dân bình thường; nền nếp thư hương của họ Nguyễn
Thượng có lẽ cũng tắt đi từ đấy! Vậy nên con cháu đời đời phải biết và nhớ ơn
công đức của Cụ….
Cụ Hiệu Trai cảm cái đức của Cụ Kế nên sau
này thờ Cụ rất hiếu! Trong khi đi làm quán xa xôi, có của ngon thức lạ cũng đưa
về dâng Cụ Kế. Lỡ khi có lỗi thì mặc áo rộng, quỳ trước Cụ để nghe Cụ dạy bảo,
khi nào Cụ xá lỗi cho thì mới dám đứng đậy…”
(Tộc
phả họ Nguyễn Thượng làng Bặt Chùa)
Cụ Kế vì có chắt làm quan to (Cụ Nguyễn Thượng Phiên) nên được truy
phong “Tòng tứ phẩm phu nhân”
Con đẻ thứ tư của Cụ Kế là Nguyễn Phán,
thụy An Lạc, hiệu Ôn hào, năm Thành Thái thứ 7 được truy phong “Triều liệt đại
phu, Thị giảng học sĩ Viện hàn lâm”. Năm Thành Thái thứ 9 lại được truy phong
“Trung nghị đại phu, Thái bộc tự khanh” (tòng tam phẩm) nên thường gọi là Cụ
Thái bộc.
Con trai thứ ba của Cụ Thái bộc
– cháu nội của Cụ Kế - là Nguyễn Tụng. Thuở nhỏ, gặp khi thôn ấp mất mùa phải
bỏ học. Mãi đến năm 15 tuổi mới cắp sách đến trường. Cụ đã bốn lần thi đều đậu
Tú tài. Lần thứ tư là vào năm Tự Đức 11 (1858),
lúc ấy Cụ đã 60 tuổi vẫn còn cắp “ống quyển” vào trường thi. Năm 1861, với
quyết tâm phải thi đỗ đại khoa nên đã 63 tuổi, Cụ lại đi thi lần thứ 5. Song
năm ấy do bị cảm rồi mặc bệnh thiên đầu thống, chạy chữa mãi không khỏi nên từ
đó Cụ mới thôi, ở nhà dạy học, không đi thi nữa. Cụ đã truyền cái ý chí phải
học tập, đạt đỉnh cao trong thi cử để giúp ích cho đời từ người bà nội (Cụ Kế), và tự mình làm gương cho con
trai là Nguyễn Thượng Phiên. Khi Cụ Phiên vừa đỗ cử nhân, Cụ nói:
-
Nhà ta với truyền thống thi đậu làm quan đến nay đã 5
đời, nhưng chưa có ai đậu đại khoa, con phải cố gắng thực hiện bằng được chí
hướng của cha…
Năm 1862, Nguyễn Thượng Phiên
nhậm chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai, khi về hầu, người cha (Cụ Nguyễn Tụng) lại dạy:
-
Con kịp thời đưa thưng đấu, lương bổng về nuôi cha; đó
là tấm lòng của người con có hiếu. Nhưng lòng mong muốn của cha là con sẽ thi
đậu đại khoa để khỏi phụ chí của cha, con không nên vội ra làm quan…
Năm 1863, khi Nguyễn Thượng Phiên được bổ
Tri huyện Phù Ninh, mỗi khi về thăm nhà đều bị cha quở trách, thúc dục phải tốt
nghiệp thi Hội, thi Đình.
Một người cha bẩm thụ tính trời
hiếu thảo, cư xử trung hậu, miệt mài học tập mong nối nghiệp tiền nhân… đã là
gương sáng cho con cháu noi theo.
Con trai của Cụ là Nguyễn Thượng Phiên đã
đậu Tiến sĩ, giữ nhiều chức vụ quan trọng tới hàng nhất, nhị phẩm của triều
Nguyễn, lại có nhiều tác phẩm văn chương có giá trị.
Nối nghiệp ông cha, Nguyễn
Thượng Hiền (con Cụ Thượng Phiên, cháu Cụ
Nguyễn Tụng, chắt Cụ Thái bộc, chút Cụ
Kế) 18 tuổi đỗ Tiến sĩ, được giao nhiều chức vụ quan trọng như: Tổng đốc,
Thượng thư… nhưng Cụ không làm – do triều đình lúc đó suy đồi – Cụ ở nhà viết
sách. Tiến sĩ Nguyễn Thượng Hiền đã để lại cho đời sau 6 tác phẩm thơ ca yêu
nước thương dân. Cụ đã cùng Cụ Phan Bội Châu và các nhà chí sĩ yêu nước khác
tham gia cách mạng trong phong trào Đông du
Một bà mẹ kế nuôi dạy
con chồng học hành thành đạt, gây dựng vun đắp làm vẻ vang cho nhà chồng… Một
người cha nối chí và thực hiện ý nguyện của bà nội để rèn dũa con cháu nên
người không chỉ là tấm gương sáng cho muôn đời sau mà đó còn là truyền thống
của gia đình, truyền thống hiếu học của người dân Đất Việt ngàn năm văn hiến!
1- 2008
+ Báo NCT in số tháng 5 - 2008