GIẾNG NƯỚC
LÀNG TÔI
Không ai biết tường tận giếng nước ấy đã có tự bao giờ; Chỉ biết rằng
nghe các cụ cao tuổi trong làng nhiều thế hệ kể lại thì các cụ sinh ra và lớn
lên, đã thấy cái giếng ấy rồi. Cứ thế, đời này kế tiếp đời khác cho đến tận bây
giờ. Không chỉ là địa điểm cung cấp nước ăn cho cả làng, mà còn có nhiều kỷ
niệm với bao người; là niềm tự hào của nhiều thế hệ.
Nằm giữa khu trung tâm văn hoá của làng, ngay bên cạnh ngôi đình, Nhà
văn hóa – Khu thể thao, giếng nước như một chiếc gương lớn với diện tích mặt
lên đến trên 800m2, đáy lòng chảo. Rốn giếng sâu, nước gần ngập một cây tre.
Xung quanh được xây bao theo hình tròn từ mép đáy lên, đến nay nhiều chỗ sự
liên kết giữa các hàng gạch vẫn còn tốt. Gần đây, nhân dân trong làng và chi
hội NCT đã góp tiền xây thêm lan can phần vượt trên bờ và trồng con tiện. Xung
quanh bờ được đổ bê tông. Tại vị trí đẹp nhất gần đường đi, trong dịp kỷ niệm
1000 Thăng Long – Hà Nội, những người con của làng sống xa quê còn ủng hộ xây
một bể cảnh với núi non bộ lớn, chiều cao tới trên 3 mét!.
Nhờ có mạch nước ngầm nên nước giếng
rất trong, trên mặt còn thả “bèo ong”. Dưới giếng có rất nhiều cá, nhưng rất ít
khi đánh bắt. Thời bao cấp, có lần người ta bắt được con cá mè “ta” nặng tới
trên một yến.
Tuổi chúng tôi lớn lên, trưởng thành đều ăn uống nước giếng làng. Nhiều
phó tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ, chuyên viên, anh hùng thời ấy đều nhờ ăn nước giếng
nơi đây mà thành đạt!. Những cô thôn nữ với mái tóc dài óng mượt, gọn ghẽ, căng
tròn trong bộ quần áo bà ba, chiều chiều ra giếng gánh nước, soi khuôn hình của
mình xuống mặt nước thật là gợi cảm, nên thơ. Đôi nồi đất nung ngồi gọn ghẽ
trong chiếc quang làm bằng dây song hay cật tre, rồi đến đôi thùng tôn được treo
trên móc xích vào hai đầu đòn gánh “bằng” nhún nhẩy trên đường làng... như một
bức tranh thuỷ mặc sống động độc đáo hiếm có... Rồi những buổi gánh nước tập
đoàn: năm bảy cô rồng rắn nối nhau lần lượt gánh nước đổ đầy bể thành viên này
đến thành viên khác. Hình ảnh giếng nước làng tôi đã có mặt trong những thước
phim tài liệu do mấy hãng nước ngoài về quay cùng với những phụ nữ “ba đảm
đang” thời chống Mỹ.
Lại nhớ, tháng 2 năm 1950, bom Pháp ném xuống làng đã làm sạt lở một góc
bờ giếng. Ngay mấy ngày sau làng đã xây lại. Người ta truyền nhau rằng giếng
làng rất “thiêng”. Thập kỷ 50 của thế kỷ trước, làng có một ông tên là Hành, vợ
mấy lần sinh toàn được con gái? Cũng vừa nhân lúc làng cần thay nước ở giếng.
Nhưng do giếng sâu, lại có mạch nước ngầm, nên chưa có phương án thực hiện.
Được hội đồng bô lão của làng đồng ý, ông Hanh đã đặt mấy “cấp gầu sòng” từ
trên bờ xuống tới đáy, với hàng chục chiếc gầu tát suốt ngày đêm, nước đã cạn,
giếng trở lại sạch sẽ. Không biết có phải vì việc thiện và tâm linh ấy không mà
sau đó vợ ông Hành sinh hai người con trai liền!
Theo cụ Pha năm nay 91 tuổi kể lại: Vợ chồng cụ “nên duyên có phận” cũng
khởi đầu từ chuyện gánh nước giếng. Hồi ấy là năm 1948, cô thôn nữ - bây giờ là
cụ bà - đi gánh nước, do kỹ thuật túm cổ
quang và hướng đứng múc nước chưa thành thạo, một bên nồi đất nung rời khỏi
“trôn” quang nổi trên mặt nước, trôi đi. Chiếc nồi bên kia đầu đòn gánh từ từ
chìm xuống. Mất thăng bằng, cô gái té nhào sau khi hét lên một tiếng. Cũng may
có chàng thanh niên lúc đó mới 18 tuổi – bây giờ là cụ ông - đi qua vội vàng lao xuống... Người thanh niên
sau đó đi bộ đội, lại được tham gia chiến dịch Điện Biên, rồi trở lại quê
nhà... Cô gái vẫn chờ... Bây giờ hai cụ vẫn khỏe, con cháu của hai cụ người ở
quê, người công tác thoát ly trên thành phố, đều thành đạt trong học tập và
cuộc sống....
Nhiều năm nay, tuy không còn ai ăn nước ở giếng làng nữa nhờ có 98% số
gia đình trong làng có giếng khoan đã qua lọc để dùng trong sinh hoạt và 100%
số hộ có bể hứng nước mưa - có bể chứa được trên chục khối - dùng cho việc ăn
uống. Tuy vậy, người dân trong làng vẫn cùng nhau giữ gìn giếng làng như một
vật báu thiêng liêng, một biểu tượng văn hoá tâm linh không thể mất.
5 - 2011
MAI XUÂN CHỨC